Móng bè cọc là gì? Các công bố khoa học về Móng bè cọc

Móng bè cọc là một hệ thống móng được sử dụng trong xây dựng công trình, đặc biệt là trong xây dựng nhà cao tầng. Hệ thống này bao gồm việc cắm các cọc vào đất ...

Móng bè cọc là một hệ thống móng được sử dụng trong xây dựng công trình, đặc biệt là trong xây dựng nhà cao tầng. Hệ thống này bao gồm việc cắm các cọc vào đất để tạo độ bền và ổn định cho công trình. Các cọc thường được làm bằng thép hoặc bê tông và được cắm sâu vào đất để chống lại tác động từ tải trọng và đất đai. Móng bè cọc thường được sử dụng trong các khu vực có động đất mạnh, đất yếu hoặc yêu cầu độ bền cao cho công trình.
Móng bè cọc được sử dụng để chống lại tải trọng từ công trình hoặc tác động từ môi trường xung quanh. Hệ thống này thường được sử dụng trong những trường hợp sau:

1. Đất yếu: Khi đất dưới công trình có độ chắc chắn kém, móng bè cọc được sử dụng để truyền tải tải trọng từ công trình xuống tầng nền chắc chắn hơn.

2. Động đất: Trong các khu vực động đất mạnh, móng bè cọc được sử dụng để cố định công trình và chống lại những tác động xói mòn từ đất đai.

Móng bè cọc thường bao gồm các yếu tố sau:

1. Cọc: Cọc được cắm sâu vào đất để tạo độ bền cho móng. Có hai loại cọc phổ biến được sử dụng: cọc thép và cọc bê tông.

- Cọc thép: Cọc thép thường được làm từ thép chống rỉ hoặc thép cường độ cao. Chúng có đường kính khá nhỏ, thường từ 10cm đến 30cm và được cắm sâu vào đất.

- Cọc bê tông: Cọc bê tông được làm từ bê tông chịu tải trọng cao. Chúng có đường kính lớn hơn so với cọc thép và cần được đúc sẵn trước khi cắm vào đất.

2. Móng: Móng là phần phía trên của cọc, là nền tảng để xây dựng công trình. Móng bè cọc thường có hình dạng vuông, chữ nhật hoặc tròn.

3. Tường chống: Tường chống được xây dựng xung quanh móng để tăng độ bền và ổn định cho công trình. Tường chống có thể được làm bằng bê tông hoặc các vật liệu khác như thép.

Móng bè cọc giúp tăng độ bền và ổn định cho công trình, đồng thời giảm sự tổn hại từ tác động của đất đai và đảm bảo an toàn cho công trình và người sử dụng.
Móng bè cọc có một số thành phần quan trọng khác cần được liệt kê và giải thích như sau:

1. Độ sâu của cọc: Đây là độ sâu mà cọc được cắm vào đất. Độ sâu của cọc phụ thuộc vào điều kiện địa chất của đất, mức độ cần thiết để đảm bảo độ bền và ổn định của cọc.

2. Số lượng cọc: Số lượng cọc trong hệ thống móng bè cọc được quyết định dựa trên tải trọng của công trình và điều kiện địa chất. Thông thường, càng nhiều cọc được sử dụng, thì cơ sở móng sẽ càng bền vững và có khả năng chống lại tải trọng cao hơn.

3. Khoảng cách giữa các cọc: Khoảng cách giữa các cọc càng nhỏ, thì sự chịu tải trọng của cỗ móng càng đồng đều. Điều này giúp đảm bảo tính ổn định và độ cứng của công trình.

4. Kiểu cọc: Hệ thống móng bè cọc sử dụng một loại cọc cố định hoặc một sự kết hợp của các loại cọc khác nhau. Các loại cọc phổ biến bao gồm cọc đứng, cọc nghiêng, cọc sắt, cọc nhồi, cọc xi măng, cọc precast và cọc khoan nhồi.

5. Liên kết: Các cọc trong hệ thống móng bè cọc có thể được liên kết với nhau bằng cách sử dụng khung cầu, đợt thép hoặc mối hàn. Liên kết này giúp tăng độ cứng và chống lại tải trọng ngang.

6. Quá trình đóng cọc: Quá trình cắm cọc có thể được tiến hành bằng cách sử dụng các phương pháp như cắm cọc bằng máy nén, cắm cọc bằng máy khoan nhồi, hoặc cắm cọc bằng máy kéo. Trong một số trường hợp, đất xung quanh cọc cũng cần được đóng lại để tăng tính nén chặt của đất đai.

Hệ thống móng bè cọc là một phương pháp xây dựng công trình có độ bền và ổn định cao. Nó được sử dụng rộng rãi trong xây dựng công trình chiến lược như nhà cao tầng, cầu, cảng biển và các công trình dân dụng khác.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "móng bè cọc":

Distribution of the Intermedilysin Gene among the Anginosus Group Streptococci and Correlation between Intermedilysin Production and Deep-Seated Infection with Streptococcus intermedius
Journal of Clinical Microbiology - Tập 38 Số 1 - Trang 220-226 - 2000
ABSTRACT

The distribution of intermedilysin, a human-specific cytolysin, among the anginosus group streptococci and the correlation of toxin production and infection by Streptococcus intermedius were investigated. PCR and Southern hybridization specific for the intermedilysin gene revealed that the toxin gene exists only in S. intermedius and no homologue to the toxin gene is distributed in S. anginosus and S. constellatus . Thus, the intermedilysin gene is useful as a marker gene of S. intermedius . Moreover, a human-specific hemolysis assay and Western blotting with intermedilysin-specific antibodies clearly demonstrated that the intermedilysin production level in isolates from deep-seated infections, such as brain and liver abscesses, is higher (6.2- to 10.2-fold, respectively) than in strains from normal habitats, such as dental plaque, or from peripheral infection sites. However, other candidate virulence factors of S. intermedius , such as chondroitin sulfate depolymerase, hyaluronidase, and sialidase activities, did not show such a clear correlation between enzymatic activity and isolation sites or disease severity. From these results, intermedilysin is likely to be the pathogenic or triggering factor of significance in inducing deep-seated infections with S. intermedius .

Nghiên cứu sự phân bố tải trọng trong quá trình làm việc của móng bè cọc
TẠP CHÍ VẬT LIỆU & XÂY DỰNG - Số 04 - Trang Trang 67 - Trang 72 - 2021
Móng bè cọc ngày càng được áp dụng rộng rãi, đặc biệt là cho các tòa nhà cao tầng. Trong móng bè cọc, cọc không được thiết kế để chịu toàn bộ tải trọng mà chỉ để giảm độ lún đến một mức độ cho phép. Bài báo này trình bày nghiên cứu sử dụng kết hợp với phương pháp phần tử hữu hạn để thiết kế móng bè cọc. Kết quả nghiên cức chỉ ra rằng: phương pháp móng bè cọc như là một phương án móng thay thế. Phân tích phần mềm Plaxis 3D để xác định độ lún và hệ số phân bố tải trọng trong móng bè cọc.
#Móng bè cọc #Phần tử hữu hạn #Plaxis #Đất yếu
Phân tích hiệu quả của móng bè – cọc
TẠP CHÍ VẬT LIỆU & XÂY DỰNG - Số 04 - Trang Trang 147 - Trang 150 - 2021
Bài báo này phân tích hiệu quả kinh tế của móng bè – cọc so với móng cọc khoan nhồi. Sau khi dùng phương pháp xét đến mối quan hệ tương hỗ giữa đất, bè, cọc và mô hình bài toán bằng phần mềm ETABS và SAFE đem lại hiệu quả đáng kể khi so sánh móng bè - cọc với móng cọc khoan nhồi.
#Móng bè – cọc #Hệ số nền
Nghiên cứu ứng xử của hệ tường vây - móng bè - cọc cùng chịu tải trọng công trình
TẠP CHÍ VẬT LIỆU & XÂY DỰNG - Tập 13 Số 02 - Trang Trang 47 - Trang 53 - 2023
Trong tính toán và thiết kế móng bè cọc cho các tòa nhà cao tầng, nhiều tính toán không xét đến sự tham gia làm việc của cọc barrette. Khả năng chịu tải của tường vây cọc barrette đáng kể khi tường vây cắm sâu vào nền đất cứng. Trong bài báo này, sự tham gia của hệ trường vây cọc barrette được phân tích và đánh giá bằng phần mềm Plaxis 3D V20 cho một công trình thực tế. Với móng bè cọc sự phân bố tải lên bè là 13,48 % còn hệ cọc là 86,52 %. Khi móng bè cọc liên kết với tường vây cọc barrette, phần trăm tải lên móng bè là 13,48 %, phần trăm tải lên hệ cọc là 70,62 % và tường vây cọc barrette là 15,9 %. Như kết quả trên thì phần trăm tải tác dụng lên hệ cọc giảm đi 15,9 % khi móng bè cọc kết hợp với tường vây cọc barrette.
#Móng bè cọc #Tường vây
Incidence of macrolide–lincosamide–streptogramin B resistance amongst beta-haemolytic streptococci in The Gambia
Springer Science and Business Media LLC - - 2017
In West Africa, penicillin, macrolide and lincosamide resistance among beta-haemolytic streptococci (BHS) isolates has rarely been described. However, such data are critical to detect and track the emergence of antibiotic resistance. Beta-haemolytic streptococci were cultured from clinical specimens from patients attending the clinic at the Medical Research Council Unit The Gambia (n = 217) and kept at −70 °C. Of these, 186 were revived and tested for penicillin susceptibility by disc diffusion and E-test methods, and the D-test for determination of constitutive and inducible macrolide–lincosamide (MLSB) resistance phenotypes. The majority of BHS isolates from infections were group A streptococci (GAS) (126/186, 67.7%). Of these, 16% were from invasive disease (30/186). Other BHS isolated included lancefield groups B (19, 10.2%); C (9/186, 4.8%), D (3/186, 1.6%), F (5/186, 2.7%), G (16/186, 8.6%) and non-typeable (8/186, 4.3%). Prevalence of BHS isolated from blood cultures ranges from 0% (2005) to 0.5% (2010). Most (85, 45.7%) of the isolates were from wound infections. Of the 186 BHS isolates, none was resistant to penicillin and 14 (6.1%) were resistant to erythromycin. Of these, 8 (4.3%) demonstrated constitutive MLSB resistance, and 5 (2.7%) were inducible MLSB resistant. All the inducible MLSB isolates were GAS, and majority of the constitutive MLSB isolates (6/8, 75.0%) were non-GAS. Beta-haemolytic streptococci, predominantly GAS are associated with a wide range of infections in The Gambia. It is reassuring that macrolide and lincosamide resistance is relatively low. However, monitoring of MLSB resistance is necessary with the global spread of resistant BHS strains.
Tổng số: 27   
  • 1
  • 2
  • 3